chùa đền và đình khác nhau như thế nào
Ở mỗi đơn vị đình, miếu, đền thường chỉ thờ 1 vị thánh thần theo tín ngưỡng của địa phương (đền Kiếp Bạc thờ Trần Hưng Đạo, miếu thủy thần thờ thần nước, đình làng thờ Thành hoàng là của mỗi địa phương…). Chùa là nơi thờ Phật, Bồ Tát cùng những
Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,… Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó.
Đạo Phật thì có chùa, am; đạo thiên chúa thì có nhà thờ, Thánh được thờ trong các đình, đền, miếu, điện, phủ. Tùy theo đối tượng được thờ mà có tên gọi khác nhau. Có thể tóm gọn lại như sau: 1. Am và Chùa đều là nơi thờ Phật nhưng Am có quy mô nhỏ hơn chùa và
Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. 09/03/2019 Những ngày cuối năm cũng như đầu năm mới là lúc người dân nườm nượp đổ về các Chùa, Đền, Miếu… để thờ cúng cầu tạ ơn hoặc mong một năm mới an lành, nhiều tài lộc. Thế nhưng có một sự thật đáng buồn đó là có nhiều người đi Chùa nhưng lại mang cỗ mặn nào gà, nào lợn vì họ cho rằng đó là cách bày tỏ lòng thành bằng cách đưa những món ngon tới đây. Điều này xuất phát từ sự thiếu hiểu biết hoặc chưa hiểu hết ý nghĩa của việc đi chùa. Vì vậy, qua đây Phong Linh Stone giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó. Chùa Là Gì ?Đinh Là Gì ?Đền Là Gì ?Miếu Là Gì ? Chùa Là Gì ? Chùa tiếng Hán Việt gọi là tự. Nó còn có những tên khác như Tăng Già Lam, Già Lam, Phạm Sát, Lan Nhã, Tùng Lâm, Tinh Xá, ạo Tràng… Có chỗ gọi là tự Viện. Tiếng Phạn tương đương với tự viện là Vihara. Chùa chủ yếu có 3 ban thờ, chính giữa là ban Thượng Trụ Tam Bảo ban Phật. Bên tay phải hướng mặt đối với ban Tam Bảo thông thường là ban Đức Thánh Ông. Bên tay trái hướng mặt đối Tam Bảo là ban Đức Thanh Hiền một số chùa có thể thay thế bằng các vị thánh tăng khác. Thiền Viên Trúc Lâm Tây Thiên Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Về tác dụng của ngôi chùa, trước hết phải nói ngôi chùa mang chức năng là một cơ sở giáo dục. Lịch sử đã chứng minh, bất luận thời nào, ngôi chùa cũng đóng một vai trò then chốt quan trọng trong việc điều hướng giáo dục quần chúng nhân dân. Có thể nói chùa là cái nôi là cái lò rèn luyện chuyên đào tạo cho mọi người hướng thiện tu hành. Nơi đây nuôi dưỡng đời sống tâm linh và đóng góp xây dựng nếp sống đạo đức hiền hòa cao đẹp cho con người theo chiều hướng thánh thiện. Nhiều người lên Chùa, họ tìm đến Đức Phật để cầu xin cho mình những giá trị thực tiễn như tiền tài, may mắn, địa vị… trong cuộc sống mà quên đi rằng Đức Phật chỉ là là một nhà tư tưởng và họ mới chính là chủ thể quyết định chính cuộc sống của mình. Theo bài viết những hiểu lầm về Đạo Phật đã chỉ ra rằng, Đức Phật ở đây chỉ mang ý nghĩa như một nhà tư tưởng chứ không phải là một vị thần thánh. Không có chuyện Đức Phật ở chùa này lại thiêng hơn chùa kia, bản chất đều là cùng thờ một Đức Phật tư bi hỉ xả, phổ độ chúng sinh. Người đến thờ Phật để tu bản thân mình chứ không phải coi Đức Phật như một vị thánh đem đi điều không may mang đến điều tốt lành mà coi thánh nơi này thiêng hơn thánh nơi khác. Đi Chùa chỉ nên cúng đồ chay, việc cúng mặn, đốt vàng mã vô tình mắc tội mà không biết, thắp hương, công đức tiền lẻ bừa bãi… tất cả cũng đều bắt nguồn từ nhận thức sai lệch hoặc thiếu hiểu biết của người dân khi đến cửa Phật… Đinh Là Gì ? Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam. Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề ông tổ của nghề. Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, ghi nhận công lao của họ với đất nước. Thời xưa, đình làng là trụ sở hành chính của chính quyền tựu trung đủ mọi lề thói từ rước xách hội hè, khao vọng quan trên, đón người đỗ đạt, họp việc làng, xử kiện cùng những quy củ nhất định, có sự phân biệt chiếu trên, chiếu dưới. Đình Bảng Bắc Ninh Đình làng phát triển mạnh mẽ giai đoạn thế kỷ 16 – 18 với những cái tên như Thổ Hà, Trùng Thượng, Trùng Hà, Tây Đằng, Chu Quyến, Hoàng Sơn… Nhưng do tàn phá của chiến tranh, điều kiện môi trường, thiên nhiên, mưa nắng mà bóng dáng của những ngôi đình cổ truyền thống dần dần mai một. Để phân biệt chùa và đền với đình thì điểm khác biệt rõ rệt là địa điểm, xây chùa và đền chọn nơi tĩnh mịch, có khi u tịch, khuất lối còn đình làng chủ yếu lấy địa điểm trung tâm. Lý tưởng nhất là đình có địa điểm thoáng đãng nhìn ra sông nước. Nếu không có được ao hồ thiên nhiên thì dân làng có khi đào giếng khơi để có mặt nước phía trước đình cho đúng thế “tụ thủy” vì họ cho đó là điềm thịnh mãn cho làng. Đình thường cao ráo, thoáng mát, nóc có tượng đôi rồng lượn tranh lấy quả châu, trên các thanh xà ngang là những bức hoành phi câu đối. Nơi thiêng liêng nhất để thờ thần là điện thờ. Sân đình được lát gạch. Trước đình có hai cột trụ cao vút, trên đình được tạc hình con nghê. Trong đình, gian giữa có bàn thờ, thờ một vị thần của làng gọi là Thành hoàng. Một chiếc trống cái cũng được để trong đình để đánh vang lên theo nhịp ngũ liên thúc giục dân làng về đình tụ họp bàn tính công việc của làng. Đền Là Gì ? Nói đến Đền chúng ta có thể kể tên kha khá các tên như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian. Đền Hai Bà Trưng – Mê Linh Ở Chùa chúng ta sẽ tụng Kinh còn ở đền, phủ là Hầu Đồng và hát chầu Văn. Tuy nhiên nghi lễ này chỉ do những Thanh Đồng tức những người có căn quả hợp để hầu Thánh và Mẫu. Theo tín ngưỡng thờ Mẫu thì Hầu Đồng chính là nghi lễ mà các Thanh Đồng được Thánh giáng đồng nhập xác thông qua các giá hầu để ban phát phúc, lộc cho mọi người. Bái trí trong đền thì thông thường ban ngoài cùng sẽ là ban tứ phủ công đồng có Ngọc Hoàng bệ hạ, Nam Tào, Bắc Đẩu và các quan trong tứ phủ, tam tòa trong đạo thơ Mẫu và thờ Thánh là tín ngưỡi bản địa của Việt Nam trong hậu điện mới thờ vị thánh, thần ngự tại đền. Người đến cúng đền nên tìm hiểu về danh tính, sắc phong, công đức và tiểu sử của vị thần, thánh ngự trong đền để kêu đúng danh tính của các ngài khi cúng lễ. Theo tín ngưỡng phong tục dân gian, sắp lễ tại đền thì có thể cúng hoa quả, bánh trái, chè thuốc, trầu cau, nhang đèn nến và lễ mặn chủ yếu cúng lễ mặn như rượu, xôi và thịt tại ban công đồng, sắp lễ tùy tâm không kể ít nhiều nhưng phải thành kính và sạch sẽ, đồ cúng tươi ngon hoa tươi, quả tốt. Miếu Là Gì ? Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Miếu thường ở xa làng, yên tĩnh, thiêng liêng và là nơi thờ các vị thánh thần. Khi miếu phối hợp với thờ Phật thì được gọi là Am, ở Nam bộ gọi là Miễu. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Khấn thế nào mới chuẩn khi đi lễ Đình, Đền Miếu, Phủ Ví dụ miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ. Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa nhân thần, ngày hiện hóa thiên thần làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Miếu và đền về kiểu mẫu thì giống nhau, chỉ khác nhau về quy mô. Các miếu thường thờ các vị thần như miếu thổ thần, thủy thần, sơn thần, miếu cô, miếu cậu… Bài trí điện thờ trong Miếu đơn giản hơn trong đền, cũng có thể có 2 cung nhưng chủ yêu là 1 cung thờ, nếu kết hợp thờ Phật thì có ban Phật phía trước. Sắp lễ cúng Miếu cũng tương tự như cúng đền, riêng ban Phật chỉ cúng chay. Founder và CEO của Phong Linh Gems. Chuyên gia Đá Quý và Phong Thủy với 6 năm kinh nghiệm. Tôi hiểu rằng chỉ có am hiểu về đá quý và phong thủy thì mới mang đến những giá trị cho từng khách hàng.
Không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am... Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,… Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó. Cho nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có cái đình mà cũng không hiểu vì sao cái đình lại “mọc” lên ở đó,… Vì vậy, chúng tôi đã biên tập bài viết này để giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó. Chùa là gì? Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Đình là gì? Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam. Đình làng Đình Bảng. Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề ông tổ của nghề. Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới. Đền là gì? Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian. Đền Kiếp Bạc. Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. Miếu là gì? Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Ví dụ miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ. Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa nhân thần, ngày hiện hóa thiên thần làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu cách gọi của người miền Nam Nghè là gì? Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều Cẩm Giàng – Hải Dương. Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh. Hiện ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII. Điện thờ là gì? Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác. Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,… Phủ là gì? Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam. Một số nơi thờ tự ở Thanh Hóa gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật. Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII. Quán là gì? Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão Đạo giáo. Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh. Bích Câu đạo quán. Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân, Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ Ngọc Hoàng. Có thể kể tới các quán điển hình như Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ nay là Hà Nội. “Thăng Long Tứ quán” bao gồm Chân Vũ quán tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Huyền Thiên cổ quán nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai; Đồng Thiên quán nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành; Đế Thích quán nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên. Am là gì? Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia. Với người Việt, Am là nơi thờ Phật Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây… cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV thời Lê sơ là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am.
07/04/2023 Đời sống tâm linh là một phần quan trọng trong cuộc sống của người Việt, thậm chí được quan tâm chăm chút có phần nhỉnh hơn so với đời sống vật chất thường ngày. Đây là một truyền thống có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam, được gìn giữ và lưu truyền qua các thế hệ. Đi từ cực Bắc Hà Giang cho đến mũi Cà Mau, có thể dễ dàng nhận ra những hệ thống thờ tự với nhiều dạng thức phong phú đa dạng. Trong đó, nổi bật và chiếm đa số có thể nhắc đến như đình, đền và chùa. Cùng là nơi thờ phụng, thực hành tâm linh của người dân, nhưng đình, đền và chùa có nhiều điểm khác biệt, được xây dựng nhằm phục vụ những mục đích không hoàn toàn giống nhau. Đình Thời xa xưa, đình làng chỉ là một nơi để nghỉ chân. Đến năm 1231, thượng hoàng Trần Huy Tông xuống chiếu chỉ cho đắp tượng Phật ở đình quán. Năm 1491, vua Lê Thánh Tông cho xây dựng Quảng Văn đình ngoài cửa Đại Hưng nay là Cửa Nam, Hà Nội, là nơi để dân đánh trống kêu oan và bố cáo những chính sách của triều đình. Đến thời Lê Sơ, đình làng mới dần định hình chức năng thờ Thành hoàng và là nơi hội họp của người dân trong làng. Mọi công việc quan trọng của làng đều được tổ chức ở đây. Tục thờ Thành hoàng bắt đầu du nhập vào nước ta từ thế kỉ XV, trở nên phổ biến rộng rãi vào thế kỉ XVI. Các làng quê ở miền Bắc chịu ảnh hưởng của phong tục này sâu sắc hơn làng quê miền Nam – vốn mới được hình thành các năm sau này. Thành hoàng là một vị thần không có tên tuổi, lai lịch cụ thể, được xem là vị thần “hộ quốc tỳ dân”, trấn giữ an nguy cho địa phương nơi vị thần ấy được thờ tự. Kiến trúc của những ngôi đình được xây dựng dựa trên những nguyên tắc phong thuỷ. Địa điểm xây đình thường được chọn tại vị trí trung tâm, thuận tiện cho dân làng hội họp vào các dịp lễ hội. Đình làng thường nhìn ra sông, hoặc phải có ao, giếng làng phía trước cho đúng thế “tụ thuỷ”, là điềm mang lại sự thịnh vượng cho cả làng. Đền Khác với đình làng, đền thờ là công trình được xây dựng để thờ một vị thần cụ thể, có tên tuổi rõ ràng trong tôn giáo hoặc tín ngưỡng địa phương, ví dụ như đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Quán Thánh, đền Gióng,… Nhiều nơi, đền được xây dựng để thờ những vị quan giỏi tướng tài, có công với đất nước, dân tộc, như đền thờ Vua Hùng, đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ Đức Thánh Trần,… Đền thờ thường được xây dựng tại địa điểm được cho là gắn liền với xuất thân hoặc nơi diễn ra các sự tích liên quan đến các vị thần. Với các danh tướng, người có công với dân tộc, đền thờ thường được đặt tại quê hương các Ngài hoặc những nơi tôn nghiêm, trang trọng. Người dân đến đền dâng hương để bày tỏ sự biết ơn, tưởng nhớ đến các vị thần, các anh hùng dân tộc, đồng thời bày tỏ ước ao được che chở, có nhiều may mắn cũng như thừa hưởng những đức tính uy dũng của các Ngài. Chùa Chùa là một công trình kiến trúc phục vụ mục đích tín ngưỡng. Chùa trong tiếng Hán Việt có nghĩa là “tự viện”, là nơi an trí tôn tượng các vị Phật và Bồ Tát, là chỗ lưu trú, tu tập của các vị tăng ni. Dù theo đạo Phật hay không có bất cứ một tín ngưỡng nào, bất cứ ai cũng có thể viếng thăm chùa mà không gặp trở ngài nào. Nếu như đình thường được xây dựng tại trung tâm làng xã, đền xây dựng ở những nơi gắn liền với các điển tích lịch sử, thì chùa, thường được xây dựng ở những khu vực yên tĩnh, tách biệt với cộng đồng làng xã, thường gặp nhất là trên những đỉnh núi cao. Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình riêng biệt mà là một quần thể kiến trúc, gồm nhiều công trình nhỏ đặt cạnh nhau như đại điện, khu vực lưu trú của tăng ni, các gian thờ phụ, nơi lưu trú cho khách, nhà bếp,… Tuỳ theo các nhánh nhỏ trong Phật giáo mà kiến trúc chùa cũng có sự khác biệt.
chùa đền và đình khác nhau như thế nào